Đương đại là gì? Các công bố khoa học về Đương đại

Đương đại là một thuật ngữ sử dụng để chỉ thời kỳ hiện đại, hiện tại của một ngày, một tháng, một năm hoặc một giai đoạn trong lịch sử. Đương đại thường được sử...

Đương đại là một thuật ngữ sử dụng để chỉ thời kỳ hiện đại, hiện tại của một ngày, một tháng, một năm hoặc một giai đoạn trong lịch sử. Đương đại thường được sử dụng để đánh dấu thời gian gần nhất, phản ánh các xu hướng, ý thức và sự phát triển hiện tại của xã hội, văn hóa và kỹ thuật.
Đương đại là thuật ngữ được sử dụng để chỉ hiện tượng, trạng thái, hoặc phong cách được coi là phù hợp với thời điểm hiện tại hoặc thời kỳ gần đây nhất. Nó đề cập đến những gì đang xảy ra và phát triển vào thời điểm hiện tại. Dalat là một phần nhỏ của thế giới đương đại và có thể thay đổi liên tục theo thời gian.

Trong văn hóa, đương đại thường ám chỉ đến những xu hướng và ý thức hiện tại của xã hội và văn hóa. Nó có thể ám chỉ đến các tác phẩm nghệ thuật, phim ảnh, âm nhạc, và văn hóa đại chúng đang được tạo ra hoặc phổ biến trong thời điểm hiện tại.

Trong lĩnh vực kỹ thuật, đương đại liên quan đến phần mềm và công nghệ mới nhất được sử dụng trong các sản phẩm và dịch vụ hiện tại. Nó thường đề cập đến những tiến bộ và phát triển trong lĩnh vực công nghệ ứng dụng.

Đương đại không chỉ đơn thuần là chỉ thời gian mà còn ám chỉ một phương pháp tiếp cận và nhìn nhận thế giới hiện đại. Nó thường liên kết với hiện đại, tiến bộ, và sự đổi mới trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội và văn hóa.
Để cung cấp thông tin chi tiết hơn về "đương đại", ta có thể xem xét các khía cạnh và ví dụ trong các lĩnh vực khác nhau:

1. Văn học: Trong văn học, đương đại ám chỉ đến các tác phẩm và tác giả xuất sắc, phản ánh những vấn đề, tư duy và ngôn ngữ phổ biến trong thời kỳ hiện tại. Ví dụ, tiểu thuyết "The Catcher in the Rye" của J.D. Salinger được coi là một tác phẩm đương đại với văn phong hài hước và phê phán sự nhàm chán và giả tạo trong xã hội.

2. Mỹ thuật: Trong nghệ thuật, đương đại thường liên quan đến các phong cách và phương pháp sáng tạo mới nhất. Ví dụ, thể loại nghệ thuật đương đại bao gồm tranh vẽ, điêu khắc, và trình diễn nghệ thuật hiện đại có thể sử dụng các phương tiện khác nhau như cài đặt, sáng tạo hàng đầu, và các phương pháp kỹ thuật tiên tiến để thể hiện ý tưởng và cảm xúc trực quan.

3. Âm nhạc: Trong âm nhạc, đương đại có thể ám chỉ đến các thể loại âm nhạc hiện đại như nhạc pop, rock, hip hop và EDM. Đó là âm nhạc được phổ biến và được người nghe nhạc trẻ ưa chuộng trong thời gian gần đây. Ví dụ, ca sĩ Billie Eilish và nhóm nhạc BTS được coi là các nghệ sĩ âm nhạc đương đại đang nổi tiếng toàn cầu.

4. Công nghệ: Trong lĩnh vực công nghệ, đương đại liên quan đến các phát triển mới nhất và tiến bộ trong ngành. Ví dụ, công nghệ thông tin, trí tuệ nhân tạo, Internet of Things (IoT) và xe tự lái đều là các mảng đương đại đang phát triển nhanh chóng và đóng góp vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta.

Tổng quát, khái niệm "đương đại" là linh hoạt và phụ thuộc vào ngữ cảnh và lĩnh vực cụ thể. Nó truyền tải ý nghĩa của cái mới, hiện đại và phù hợp với thời gian hiện tại.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "đương đại":

Tỷ Lệ Mắc Bệnh Đái Tháo Đường Toàn Cầu Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 27 Số 5 - Trang 1047-1053 - 2004

MỤC TIÊU—Mục tiêu của nghiên cứu này là ước lượng tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường và số lượng người ở mọi độ tuổi mắc bệnh đái tháo đường trong các năm 2000 và 2030.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP—Dữ liệu về tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường theo độ tuổi và giới tính từ một số ít quốc gia đã được ngoại suy cho tất cả 191 quốc gia thành viên của Tổ chức Y tế Thế giới và áp dụng cho ước lượng dân số của Liên Hợp Quốc trong năm 2000 và 2030. Dân số đô thị và nông thôn ở các quốc gia đang phát triển được xem xét riêng biệt.

KẾT QUẢ—Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trên toàn cầu đối với tất cả các nhóm tuổi ước tính là 2.8% vào năm 2000 và 4.4% vào năm 2030. Tổng số người mắc bệnh đái tháo đường được dự đoán sẽ tăng từ 171 triệu người vào năm 2000 lên 366 triệu người vào năm 2030. Tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường cao hơn ở nam giới so với nữ giới, nhưng số lượng nữ giới mắc bệnh đái tháo đường nhiều hơn nam giới. Dân số đô thị ở các quốc gia đang phát triển được dự báo sẽ gấp đôi từ năm 2000 đến 2030. Thay đổi nhân khẩu học quan trọng nhất đối với tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trên toàn thế giới dường như là sự gia tăng tỷ lệ người >65 tuổi.

KẾT LUẬN—Những phát hiện này cho thấy rằng “dịch bệnh đái tháo đường” sẽ tiếp tục ngay cả khi mức béo phì giữ nguyên. Với tỷ lệ béo phì ngày càng tăng, có khả năng rằng những con số này chỉ ra mức dưới mức của tỷ lệ mắc bệnh đái tháo đường trong tương lai.

#đái tháo đường #tỷ lệ mắc #béo phì #dân số toàn cầu #quốc gia đang phát triển
Phân loại và Chuẩn đoán Đái tháo đường và các Dạng Không dung nạp Glucose khác Dịch bởi AI
Diabetes - Tập 28 Số 12 - Trang 1039-1057 - 1979

Một phân loại về đái tháo đường và các dạng khác của không dung nạp glucose, dựa trên kiến thức đương đại về hội chứng không đồng nhất này, đã được xây dựng bởi một nhóm công tác quốc tế được tài trợ bởi Nhóm Dữ liệu Đái tháo đường Quốc gia - NIH. Phân loại này, cùng với tiêu chuẩn chuẩn đoán đái tháo đường được sửa đổi, đã được xem xét bởi các thành viên chuyên nghiệp của Hiệp hội Đái tháo đường Hoa Kỳ và các phiên bản tương tự đã được lưu hành bởi Hiệp hội Đái tháo đường Anh, Hiệp hội Đái tháo đường Úc, và Hiệp hội Nghiên cứu Đái tháo đường Châu Âu. ADA đã chấp thuận những đề xuất của nhóm công tác quốc tế, và Ủy ban Chuyên gia về Đái tháo đường của Tổ chức Y tế Thế giới đã chấp nhận những khuyến nghị quan trọng của nó. Đề nghị rằng phân loại này sẽ được sử dụng như một khung tiêu chuẩn để tiến hành nghiên cứu lâm sàng và nghiên cứu dịch tễ học nhằm thu được dữ liệu có ý nghĩa và mang tính so sánh hơn về phạm vi và tác động của các dạng đái tháo đường khác nhau và các dạng khác của không dung nạp glucose.

Điều trị y tế của đái tháo đường không được xem xét trong bài báo này, và phân loại này không phải là một nỗ lực để định nghĩa các hướng dẫn cho điều trị bệnh nhân.

Những sự thay đổi nổi bật được đề xuất trong phân loại này là:

1. Loại đái tháo đường phụ thuộc insulin, dễ bị nhiễm ceto (ketosis), có liên quan với gia tăng hoặc giảm tần suất của các kháng nguyên tương thích mô (HLA) nhất định trên nhiễm sắc thể 6 và với kháng thể tế bào đảo, được coi là một phân nhóm riêng biệt của đái tháo đường [đái tháo đường phụ thuộc insulin (IDDM)]. Loại này đã bị gọi không đúng là đái tháo đường trẻ vị thành niên. Vì nó có thể xảy ra ở bất kỳ độ tuổi nào, khuyến cáo rằng việc chuẩn đoán dựa trên độ tuổi khởi phát nên được loại bỏ.

2. Các loại đái tháo đường không phụ thuộc insulin, không dễ bị nhiễm ceto, không phải là thứ cấp đối với các bệnh hoặc tình trạng khác, được coi là một phân nhóm thứ hai riêng biệt của đái tháo đường [đái tháo đường không phụ thuộc insulin (NIDDM)]. Phân nhóm này được chia nhỏ - tùy thuộc vào việc có hay không thừa cân (NIDDM thừa cân và NIDDM không thừa cân, tương ứng) và bệnh nhân trong phân nhóm này có thể được đặc trưng thêm bởi loại điều trị họ nhận (insulin, thuốc hạ đường huyết uống, hoặc chế độ ăn) hoặc bởi các đặc điểm khác mà nghiên cứu viên quan tâm. Người ta tin rằng sự không đồng nhất trong phân nhóm này, và cũng trong IDDM, sẽ được chứng minh bởi các nghiên cứu tiếp theo.

3. Các loại đái tháo đường gây ra bởi điều kiện nào khác hoặc xuất hiện với tần suất gia tăng cùng với các điều kiện khác (ám chỉ mối quan hệ căn nguyên) được coi là một phân nhóm thứ ba của đái tháo đường - đái tháo đường liên quan đến các điều kiện và hội chứng nhất định. Phân nhóm này được chia theo các mối quan hệ căn nguyên đã biết hoặc nghi ngờ.

4. Lớp đái tháo đường thai kỳ bị hạn chế với phụ nữ trong đó không dung nạp glucose phát triển hoặc được phát hiện trong thời gian mang thai.

5. Những cá nhân có mức glucose huyết tương (PG) trung gian giữa những mức được coi là bình thường và những mức được coi là đái tháo đường [xem (8)] được gọi là có không dung nạp glucose suy giảm. Đề xuất rằng các thuật ngữ hóa học, tiềm ẩn, ranh giới, dưới lâm sàng, và đái tháo đường không triệu chứng, mà đã được áp dụng cho những người trong lớp này, nên được từ bỏ, vì việc sử dụng thuật ngữ đái tháo đường sẽ dẫn đến các biện pháp xã hội, tâm lý, và kinh tế không chính đáng trong bối cảnh thiếu tính nghiêm trọng của sự không dung nạp glucose của họ.

#Đái tháo đường #Không dung nạp Glucose #Phân loại #Tiêu chuẩn chuẩn đoán #Hội chứng HLA #Đái tháo đường thai kỳ.
Đái tháo đường, Các yếu tố nguy cơ khác và Tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch trong 12 năm ở nam giới được sàng lọc trong Thử nghiệm Can thiệp Các yếu tố Nguy cơ Đa chiều Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 16 Số 2 - Trang 434-444 - 1993
MỤC TIÊU

Xác định các yếu tố tiên đoán tử vong do bệnh tim mạch (CVD) ở nam giới có và không có bệnh tiểu đường và đánh giá ảnh hưởng độc lập của bệnh tiểu đường lên nguy cơ tử vong do CVD.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Các đối tượng tham gia trong nghiên cứu theo kiểu đoàn hệ này đã được sàng lọc từ năm 1973 đến năm 1975; tình trạng sống đã được xác định trong khoảng thời gian trung bình 12 năm theo dõi (từ 11–13 năm). Tổng cộng có 347,978 nam giới trong độ tuổi từ 35 đến 57, được sàng lọc tại 20 trung tâm cho thử nghiệm MRFIT. Biện pháp kết quả là tỷ lệ tử vong do CVD.

KẾT QUẢ

Trong số 5163 nam giới báo cáo đã sử dụng thuốc điều trị bệnh tiểu đường, đã có 1092 ca tử vong (603 ca tử vong do CVD) xảy ra trong thời gian theo dõi trung bình 12 năm. Trong số 342,815 nam giới không sử dụng thuốc tiểu đường, đã xác định được 20,867 ca tử vong, trong đó có 8965 trường hợp được xác định là tử vong do CVD. Nguy cơ tuyệt đối của tử vong do CVD cao hơn nhiều đối với nam giới tiểu đường so với nam giới không tiểu đường cho mọi nhóm tuổi, nguồn gốc dân tộc, và mức độ nguy cơ – tổng thể cao gấp ba lần, sau khi điều chỉnh theo độ tuổi, chủng tộc, thu nhập, mức cholesterol huyết thanh, huyết áp tâm thu (sBP) và số lượng thuốc lá đã báo cáo mỗi ngày (P < 0.0001). Đối với cả nam giới có và không có bệnh tiểu đường, mức cholesterol huyết thanh, sBP và thói quen hút thuốc lá là các yếu tố tiên đoán đáng kể tỷ lệ tử vong do CVD. Đối với nam giới tiểu đường có giá trị cao hơn cho từng yếu tố nguy cơ và sự kết hợp của chúng, nguy cơ tuyệt đối tử vong do CVD tăng nhanh hơn so với nam giới không tiểu đường, khiến cho nguy cơ thừa tuyệt đối cho nam giới tiểu đường ngày càng lớn hơn so với nam giới không tiểu đường có mức độ yếu tố nguy cơ cao hơn.

#Bệnh tiểu đường #Bệnh tim mạch #Tử vong #Yếu tố nguy cơ #Nghiên cứu đoàn hệ
Tổng Quan Toàn Cầu về Tỷ Lệ và Các Yếu Tố Nguy Cơ Chính của Bệnh Võng Mạc Đái Tháo Đường Dịch bởi AI
Diabetes Care - Tập 35 Số 3 - Trang 556-564 - 2012
MỤC TIÊU

Để kiểm tra tỷ lệ toàn cầu và các yếu tố nguy cơ chính của bệnh võng mạc đái tháo đường (DR) và bệnh võng mạc đái tháo đường đe dọa thị lực (VTDR) ở những người bị tiểu đường.

THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP

Một phân tích tổng hợp sử dụng dữ liệu tham gia cá nhân từ các nghiên cứu dân số trên toàn thế giới đã được thực hiện. Một đánh giá tài liệu hệ thống đã được tiến hành để xác định tất cả các nghiên cứu dân số trong các quần thể chung hoặc cá nhân bị tiểu đường mà đã xác định được DR từ các hình ảnh võng mạc. Các nghiên cứu cung cấp dữ liệu cho các điểm cuối DR, bao gồm bất kỳ DR nào, DR phát triển, phù hoàng điểm do tiểu đường, và VTDR, cũng như các yếu tố nguy cơ hệ thống chính. Các ước tính tỷ lệ tổng hợp được chuẩn hóa theo độ tuổi trực tiếp theo dân số thế giới năm 2010 trong độ tuổi từ 20–79.

#Bệnh võng mạc đái tháo đường #Yếu tố nguy cơ #Tỷ lệ mắc #Phân tích tổng hợp #Dân số toàn cầu #Thị lực
Axit béo chuỗi ngắn và chức năng ruột kết con người: Vai trò của tinh bột kháng và polyme không phải tinh bột Dịch bởi AI
Physiological Reviews - Tập 81 Số 3 - Trang 1031-1064 - 2001

Tinh bột kháng (RS) là tinh bột và các sản phẩm tiêu hoá trong ruột non đi vào ruột già. Điều này xảy ra vì nhiều lý do bao gồm cấu trúc hóa học, nấu chín thực phẩm, biến đổi hóa học và quá trình nhai thức ăn. Vi khuẩn đường ruột ở người lên men RS và polyme không phải tinh bột (NSP; thành phần chính của chất xơ thực phẩm) thành các axit béo chuỗi ngắn (SCFA), chủ yếu là axetat, propionat và butyrate. SCFA kích thích lưu lượng máu và sự hấp thụ điện giải và chất lỏng trong ruột kết. Butyrate là nguồn dinh dưỡng ưa thích cho các tế bào ruột kết và dường như thúc đẩy kiểu hình bình thường trong các tế bào này. Quá trình lên men một số loại RS có lợi cho việc sản xuất butyrate. Việc đo lường quá trình lên men của ruột kết ở người là khó khăn, và các phương pháp đo gián tiếp (ví dụ, mẫu phân) hoặc mô hình động vật đã được sử dụng. Trong số này, chuột có vẻ có giá trị hạn chế, và lợn hoặc chó được ưu tiên hơn. RS hiệu quả trong việc cải thiện khối lượng phân kém hơn NSP, nhưng dữ liệu dịch tễ học cho thấy nó bảo vệ tốt hơn chống lại ung thư đại tràng, có thể qua butyrate. RS là một loại prebiotic, nhưng hiểu biết về các tương tác khác của nó với vi sinh vật còn hạn chế. Sự đóng góp của RS vào quá trình lên men và sinh lý ruột kết dường như lớn hơn so với NSP. Tuy nhiên, việc thiếu một quy trình phân tích chung được chấp nhận để đáp ứng các ảnh hưởng chính đến RS vẫn chưa được xác lập.

#tinh bột kháng #polyme không phải tinh bột #axit béo chuỗi ngắn #chức năng ruột kết #butyrate #prebiotic #vi khuẩn đường ruột #ung thư đại tràng
Những thay đổi do căng thẳng nước gây ra trong nồng độ proline và tổng số đường hòa tan trong cây đại mạch có nốt (Medicago sativa) Dịch bởi AI
Physiologia Plantarum - Tập 84 Số 1 - Trang 55-60 - 1992

Độ nhạy cảm của nốt và lá cỏ linh lăng (Medicago sativa L. giống Aragón) đối với căng thẳng nước đã được điều tra. Hoạt động giảm acetylene (ARA) của nốt, tỷ lệ trao đổi CO2 của lá (CER) cũng như nồng độ protein hòa tan, proline và tổng số đường hòa tan (TSS) đã được xác định trong suốt thời kỳ hạn hán. Tình trạng nước được ước lượng thông qua tiềm năng nước (Ψw) và hàm lượng nước tương đối (RWC) của các mô tương ứng. Tốc độ tối đa của ARA yêu cầu mức Ψw cao hơn so với CER. Nốt có RWC thấp hơn đối với mỗi Ψw nhất định so với lá. Căng thẳng nước làm giảm nồng độ protein hòa tan trong cả hai mô; tuy nhiên, sự suy giảm nồng độ protein hòa tan được phát hiện ở mức Ψw cao hơn trong nốt so với lá. Proline và TSS tăng lên trong lá và nốt, và một lần nữa, ngưỡng Ψw kích hoạt sự tích lũy này thì cao hơn trong mô nốt. Kết quả của chúng tôi gợi ý rằng nốt cỏ linh lăng nhạy cảm hơn với tình trạng thiếu nước so với lá. Những ảnh hưởng của sự tích lũy TSS và proline đối với sinh lý nốt và lá được thảo luận liên quan đến tính ổn định của protein (proline), kiểm soát pH (proline) và điều chỉnh thẩm thấu (proline và TSS). Việc tích lũy TSS do căng thẳng nước gợi ý rằng tình trạng thiếu chất nền có thể không phải là tác động chính của hạn hán đối với hoạt động của nốt.

Nghiên cứu đồng vị chì của các đá núi lửa trẻ từ các rãnh giữa đại dương, đảo đại dương và cung đảo Dịch bởi AI
The Royal Society - Tập 297 Số 1431 - Trang 409-445 - 1980

Thành phần đồng vị chì của các đá núi lửa trẻ từ các môi trường kiến tạo khác nhau có đặc điểm riêng biệt. Sự khác biệt của chúng được đánh giá trong khuôn khổ kiến tạo toàn cầu và sự phân tách manti. Tổng quát, chì từ các đảo đại dương có tính phóng xạ cao hơn so với chì từ đá bazan ở rãnh giữa đại dương (m.o.r.b.). Chúng tạo thành các xu hướng tuyến tính trên các đồ thị tỷ lệ đồng vị chì. Nhiều xu hướng này mở rộng về phía vùng của m.o.r.b. Trên các đồ thị 207 Pb / 204 Pb so với 206 Pb / 204 Pb, độ dốc của chúng thường gần với 0.1. Chì từ cung đảo thường bị giới hạn giữa chì từ trầm tích và chì m.o.r.b với độ dốc ca . 0.30 trên đồ thị 207 Pb / 204 Pb so với 206 Pb / 204 Pb. Dữ liệu về đồng vị Pb, Sr và Nd của các đá núi lửa Hawaii được xem xét kỹ lưỡng. Dữ liệu từ mỗi hòn đảo hỗ trợ cho một mô hình pha trộn hai thành phần. Tuy nhiên, không có sự tương quan đầy đủ giữa các hòn đảo, điều này cho thấy sự không đồng nhất ở các nguồn cuối. Mô hình pha trộn này cũng có thể được mở rộng để giải thích dữ liệu từ rãnh Iceland-Reykjanes, và từ 45° N trên Rãnh Đại Tây Dương. Sự không đồng nhất về hóa học và đồng vị quan sát thấy ở các đá núi lửa trẻ được coi là kết quả của sự phân tách và pha trộn manti trong thời gian dài cũng như thời gian ngắn. Dữ liệu đồng vị chì từ các đảo đại dương được giải thích dựa trên các mô hình tiến hóa manti liên quan đến sự không đồng nhất hóa học và đồng vị manti lâu dài (hơn 2 Ga). Các loại m.o.r.b. giàu nguyên tố không tương hợp 'plume' có tỷ lệ Th/U ca . 3.0 quá thấp và tỷ lệ Rb/Sr ca . 0.04 quá cao để tạo ra các đồng vị chì quan sát thấy 208 Pb và 87 Sr lần lượt trong thời gian dài. Sự phân đoạn nguyên tố trong manti phải đã xảy ra gần đây. Kết luận này cũng áp dụng cho các nguồn manti cho đá bazan kiềm đảo đại dương và nephelinites. Sự cạn kiệt của các nguyên tố không tương hợp trong các nguồn m.o.r.b. rất có thể là do sự chiết xuất liên tục của dịch lỏng silicate và/hoặc giai đoạn dịch lỏng từ vùng vận tốc thấp xuyên suốt thời gian địa chất. Dữ liệu về đồng vị Pb, đồng vị Sr và các nguyên tố vết từ các đá núi lửa từ cung đảo được đánh giá dưới dạng các mô hình pha trộn liên quan đến ba thành phần xuất phát từ (1) khối kim loại dưới cung, (2) mất nước hoặc nóng chảy từng phần của lớp vỏ đại dương bị chìm, và (3) sự ô nhiễm từ lớp vỏ lục địa. Ngược lại với mối quan hệ giữa tỷ lệ 87 Sr/ 86 Sr và 143 Nd / 144 Nd của các núi lửa đại dương, có sự thiếu hụt chung trong sự tương quan giữa tỷ lệ đồng vị Pb và Sr trừ khi mẫu có Pb phóng xạ cao rất ( 206 Pb / 204 Pb > 19.5) có tỷ lệ 87 Sr/ 87 Sr thấp (0.7028- 0.7035). Những mẫu này cũng có tỷ lệ Th/U nguồn suy diễn (3.0-3.5) không đủ cao để hỗ trợ sự phát triển lâu dài của 208 Pb. Dữ liệu cho thấy rằng các nguồn manti của chúng có sự cạn kiệt tích lũy lâu dài trong Rb, Th, U và nguyên tố hiếm nhẹ. Các giá trị 238 U / 204 Pb (y a) yêu cầu bởi dữ liệu đồng vị Pb rất có thể là do sự cạn kiệt Pb do sự tách rời của giai đoạn sulfide. Mối quan hệ giữa các tỷ lệ đồng vị Pb, Sr và Nd của các đá núi lửa trẻ có thể được giải thích bằng sự di chuyển đồng thời lên trên của giai đoạn silicate và/hoặc dịch lỏng và sự di chuyển xuống dưới của một giai đoạn sulfide trong một manti đang phân hóa.

Một hồ sơ đồng vị oxy trong một phần của vỏ đại dương thời Kỷ Phấn Trắng, Samoa Ophiolite, Oman: Bằng chứng cho sự đệm δ18O của đại dương bằng cách tuần hoàn thủy nhiệt ở độ sâu (>5 km) tại sống núi giữa đại dương Dịch bởi AI
American Geophysical Union (AGU) - Tập 86 Số B4 - Trang 2737-2755 - 1981
Các phân tích đồng vị của 75 mẫu từ Samail ophiolite chỉ ra rằng sự trao đổi thủy nhiệt dưới nhiệt độ nóng chảy phổ biến với nước biển xảy ra trên bề mặt 75% của đoạn vỏ đại dương dày 8km này; địa phương, H2O thậm chí còn thâm nhập vào peridotite bị nứt gãy. Các dung nham gối (δ18O = 10.7 đến 12.7) và các dãy tường lót (4.9 đến 11.3) thường giàu 18O, và gabbro (3.7 đến 5.9) bị thiếu 18O. Trong những đá này, tỷ lệ nước/đá ≤ 0.3, và δ18Ocpx ≈ 2.9 + 0.44 δ18Ofeld, chỉ ra sự mất cân bằng đồng vị rõ rệt. Các giá trị δ18O của khoáng chất theo quỹ đạo trao đổi (trộn lẫn) cần điều chỉnh rằng plagioclase phải trao đổi với H2O khoảng 3 đến 5 lần nhanh hơn clinopyroxene. Giá trị δ18Ofeld tối thiểu (3.6) xuất hiện khoảng 2.5 km dưới tiếp xúc diabase-gabbro. Mặc dù những plagioclase trong gabbro dường như không thay đổi dưới khía cạnh petrograhy, oxy của chúng đã được trao đổi triệt để; sự vắng mặt của các khoáng chất thủy hóa, ngoại trừ talc và/hoặc amphibole nhỏ, cho thấy rằng sự trao đổi này xảy ra ở T > 400°–500°C. Các giá trị δ18O của plagioclase tăng lên theo từng mức từ các giá trị tối thiểu của chúng, trở nên trùng khớp với các giá trị nhiệt độ thấp của sơ cấp gần tiếp xúc với gabbro – diabase lót dày đặc và đạt đến 11.8 trong dãy dày. Sự giàu 18O trong các diabase thuộc phaco xanh một phần là do sự trao đổi với các chất lỏng mạnh đã bị dịch 18O, ngoài ra còn do trao đổi ngược ở nhiệt độ thấp hơn nhiều. Dữ liệu δ18O và hình học của buồng magma sống núi đại dương (MOR) đòi hỏi rằng phải có hai hệ thống thủy nhiệt không liên kết trong suốt phần lớn lịch sử trải rộng ban đầu của vỏ đại dương (khoảng 106 năm đầu); một hệ thống tập trung trên trục sống núi và có thể liên quan đến một số tế bào đối lưu tuần hoàn xuống đến mái của buồng magma, trong khi hệ thống khác hoạt động dưới cánh của buồng, trong các gabbro phân lớp. Sự phun nước dịch chuyển 18O lên trên vào các dãy đã thay đổi từ hệ thống dưới, ngay bên cạnh mép xa của buồng magma, kết hợp với sự tác động của hoạt động thủy nhiệt T thấp tiếp tục, tạo ra sự giàu 18O trong phức hợp dày đặc. Tích hợp δ18O như một hàm theo độ sâu cho toàn bộ ophiolite thiết lập (trong lỗi phân tích và địa chất) rằng trung bình δ18O (5.7 ± 0.2) của vỏ đại dương không thay đổi kết quả từ tất cả các tương tác thủy nhiệt này với nước biển. Do đó sự thay đổi thuần trong δ18O của nước biển cũng bằng không, chỉ ra rằng nước biển được đệm bởi vòng đối lưu thủy nhiệt MOR. Dưới điều kiện ổn định, tỉ lệ đồng vị 18O tổng thể giữa các đại dương và magma bazan sống núi giữa đại dương được tính toán là +6.1 ± 0.3, ngụ ý rằng nước biển có một giá trị δ18O không đổi ≈−0.4 (trong sự vắng mặt của các hiệu ứng nhất thời như băng hà lục địa). Sử dụng các dữ liệu mới này về độ sâu tương tác của nước biển với vỏ đại dương, mô hình hóa số học của sự trao đổi thủy nhiệt chỉ ra rằng miễn là tốc độ lan rộng toàn cầu lớn hơn 1 km2/yr, sự đệm 18O của nước biển sẽ xảy ra. Các kết luận này có thể được mở rộng trở lại thời điểm đầu như là Archean (> 2.6 eon) với sự phòng ngừa rằng Δ có thể đã nhỏ hơn một chút (khoảng 5?) do các nhiệt độ tổng quát cao hơn có thể đã xảy ra khi đó. Do đó, nước biển có thể đã có một giá trị δ18O không đổi khoảng −1.0 đến +1.0 trong hầu như toàn bộ lịch sử của trái đất.
#Samail Ophiolite #đồng vị oxy #vỏ đại dương #Kỷ Phấn Trắng #hệ thống thủy nhiệt #sống núi giữa đại dương #đá gabbro #tỉ lệ nước/đá #sự trao đổi thủy nhiệt #đồng vị O-18 #nước biển #tuần hoàn thủy nhiệt #buồng magma #hydrothermal circulation #isotopic buffering
Chitinase Acidic ở Động Vật Có Vú trong Viêm Th2 do Hen Suyễn và Kích Hoạt Đường Dẫn IL-13 Dịch bởi AI
American Association for the Advancement of Science (AAAS) - Tập 304 Số 5677 - Trang 1678-1682 - 2004

Chitin là một thành phần trên bề mặt của ký sinh trùng và côn trùng, và chitinase được sinh ra ở các dạng sống thấp hơn trong quá trình nhiễm các tác nhân này. Mặc dù bản thân chitin không tồn tại ở người, chitinase lại có trong bộ gene con người. Chúng tôi cho thấy rằng chitinase acid ở động vật có vú (AMCase) được sinh ra thông qua một con đường đặc hiệu của tế bào T hỗ trợ loại 2 (Th2) và sự trung gian của interleukin-13 (IL-13) trong các tế bào biểu mô và đại thực bào trong một mô hình hen suyễn do dị nguyên đường hô hấp, và biểu hiện với số lượng quá mức ở người bị hen suyễn. Sự trung hòa AMCase cải thiện viêm Th2 và tình trạng phản ứng quá mức ở đường hô hấp một phần bằng cách ức chế kích hoạt đường dây IL-13 và sự sinh ra chemokine. Vì vậy, AMCase có thể là một chất trung gian quan trọng trong các phản ứng do IL-13 gây ra trong các rối loạn chi phối bởi Th2 như hen suyễn.

#Hen suyễn #Chitinase #Động vật có vú #Tế bào T hỗ trợ (Th2) #Interleukin-13 (IL-13) #Viêm Th2 #Đường dẫn IL-13 #Dị nguyên đường hô hấp #Đại thực bào #Chemokine #Chất trung gian sinh học
Sự Đa Dạng Phân Tử của Lactobacillus spp. và Các Vi Khuẩn Axit Lactic Khác trong Ruột Người như Được Xác Định qua Sự Khuếch Đại Cụ Thể của DNA Ribosome 16S Dịch bởi AI
Applied and Environmental Microbiology - Tập 68 Số 1 - Trang 114-123 - 2002
TÓM TẮT

Một mồi PCR đặc hiệu cho nhóm Lactobacillus , S-G-Lab-0677-a-A-17 đã được phát triển để khuếch đại có chọn lọc DNA ribosome 16S (rDNA) từ các vi khuẩn lactobacilli và nhóm vi khuẩn axit lactic liên quan, bao gồm các chi Leuconostoc , Pediococcus , và Weissella . Các amplicon được tạo ra bởi PCR từ nhiều mẫu đường tiêu hóa (GI), bao gồm cả những mẫu từ phân và manh tràng, chủ yếu cho kết quả là chuỗi giống Lactobacillus , trong đó khoảng 28% tương tự nhất với rDNA 16S của Lactobacillus ruminis . Hơn nữa, bốn chuỗi của loài Leuconostoc đã được tìm thấy mà cho đến nay chỉ được phát hiện trong những môi trường khác ngoài đường tiêu hóa, chẳng hạn như các sản phẩm thực phẩm lên men. Giá trị của mồi này được chứng minh thêm qua việc sử dụng PCR đặc hiệu cho Lactobacillus và phương pháp điện di gel gradient cắt chuỗi (DGGE) của amplicon rDNA 16S có nguồn gốc từ phân và manh tràng từ các nhóm tuổi khác nhau. Đã nghiên cứu được sự ổn định của cộng đồng vi khuẩn đường tiêu hóa trong các nhóm tuổi khác nhau qua các khoảng thời gian khác nhau. Cộng đồng Lactobacillus ở ba người lớn trong suốt một thời kỳ 2 năm cho thấy sự biến đổi về thành phần và sự ổn định tuỳ vào từng cá nhân, trong khi sự thay đổi kế thừa của cộng đồng Lactobacillus đã được quan sát thấy trong suốt 5 tháng đầu đời của trẻ sơ sinh. Hơn nữa, phương pháp PCR đặc hiệu và DGGE đã được thử nghiệm để nghiên cứu sự lưu giữ trong mẫu phân của một dòng Lactobacillus được đưa vào trong quá trình thử nghiệm lâm sàng. Kết luận, sự kết hợp của PCR đặc hiệu và phân tích DGGE của các amplicon rDNA 16S cho phép nhận diện sự đa dạng của các nhóm vi khuẩn quan trọng có mặt với số lượng nhỏ trong các hệ sinh thái cụ thể, chẳng hạn như lactobacilli trong đường tiêu hóa của con người.

#Lactobacillus #PCR đặc hiệu #DGGE #DNA ribosome 16S #vi khuẩn axit lactic #đường tiêu hóa #đa dạng vi khuẩn #phân tích phân tử #cộng đồng vi khuẩn #thử nghiệm lâm sàng
Tổng số: 1,351   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10